|
|
|
|
Kiến trúc mỹ thuật
|
Tranh dân gian
|
Tranh dân gian gồm hai loại, tranh Tết và tranh thờ. Tranh dân gian có nguồn gốc từ rất xa xưa được giữ gìn, bảo tồn và phát triển qua các giai đoạn lịch sử của đất nước. Tranh dân gian không những là tài sản riêng của các làng tranh mà còn là tài sản chung của cả dân tộc.
Việt
Nam với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và nhân hoá các hiện tượng thiên
nhiên thành các vị thần nên cùng với tranh Tết, tranh thờ cũng có rất
sớm. Cả hai đã trở thành nhu cầu của nếp sống văn hoá, là thành tố của
mỹ thuật cổ truyền và hợp thành văn hoá truyền thống của dân tộc.
Do
nhu cầu của tục chơi tranh Tết và thờ cúng, tranh dân gian phải có số
lượng lớn nên người Việt Nam từ lâu đã biết đến kỹ thuật khắc ván để in.
Vào thời Lý (thế kỷ 12) đã có những gia đình chuyên làm nghề khắc ván.
Cuối thời Trần đã in được tiền giấy. Đến thời Lê Sơ lại tiếp thu thêm kỹ
thuật khắc ván in của Trung Quốc và cải tiến thêm một bước nữa. Cũng từ
đây, trong dòng chảy của mỹ thuật truyền thống - dân gian bắt đầu có sự
phân hóa để ngày càng phát triển đậm nét.
Trong bối cảnh đó,
đến thời Mạc (thế kỷ 16) tranh dân gian phát triển khá mạnh, được cả các
tầng lớp quý tộc ở kinh thành Thăng Long sử dụng vào dịp Tết mà bài thơ
Tứ thời khuê vịnh của nhà thơ đương thời Hoàng Sơ Khải đã xác nhận sự
hiện diện của các loại tranh thờ, tranh gà và tranh Tố nữ:
"Chung Quỳ khéo vẽ nên hình
Bùa đào cấm quỷ, phòng linh ngăn tà
Tranh vẽ gà cửa treo thiếp yểm
Dưới thềm lầu hoa điểm Thọ Dương"
Đến
thế kỷ 18 - 19 tranh dân gian Việt Nam đã ổn định và phát triển cao.
Bảo tàng Lịch Sử (Hà Nội) còn giữ được những ván khắc từ thời Minh Mạng
thứ 4 (tức 1823). Địa bàn làm tranh dàn trải trong cả nước. Dựa theo
phong cách nghệ thuật, kỹ thuật in vẽ và nguyên vật liệu làm tranh, có
thể quy về một số dòng tranh gọi theo tên những địa danh sản xuất.
Mỗi
dòng tranh có một phong cách riêng, song tất cả đều được dựng hình theo
kiểu "đơn tuyến bình đồ" dùng nét khoanh lấy các mảng màu và bao lại
toàn hình. Với lối dựng hình "thuận tay hay mắt", tranh dân gian không
phụ thuộc vào viễn cận một điểm nhìn mà được diễn tả theo lối quan sát
di động với nhiều góc độ khác nhau. Thần thánh luôn được vẽ to ở giữa,
phía trên, còn người bình thường thì sàn sàn nhau, con vật và cảnh sắc
thì tuỳ tương quan mà vẽ to hay nhỏ để bức tranh gây ấn tượng sâu sắc.
Trong
giao lưu văn hoá, tranh dân gian Việt Nam vừa phát triển những vốn quý
của các thời trước tích tụ lại, vừa tiếp nhận những tinh hoa của các
dòng tranh khác để rồi khẳng định những gì thích hợp với dân tộc, làm
phong phú hơn bản sắc của mình.
Ngày nay, tranh dân gian đã bị
tranh hiện đại lấn át, hầu hết đã thất truyền. Tuy nhiên, có một dòng
tranh vẫn còn tồn tại trước những thử thách của thời gian, như tranh
Đồng Hồ. Dòng tranh này không những có chỗ đứng ở trong nước mà nó đã và
đang có mặt ở nhiều nước trên thế giới như Nhật, Pháp, Mỹ...
Tranh Đông Hồ
"Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về làng Mái với anh thì về
Làng Mái có lịch, có lề
Có sông tắm mát, có nghề làm tranh"
Đó là câu ca xa xưa của một làng nhỏ nằm ven bờ nam sông Đuống, tỉnh Bắc Ninh, thuộc Kinh Bắc xưa.
Người
dân làng Hồ khi nhớ đến câu ca dao ấy, lòng thấy tự hào về nghề tranh
của mình đã một thời hưng thịnh, kéo dài từ cuối thế kỷ 17 đến nửa thế
kỷ 19. Trải qua bao thời loạn ly, tranh vẫn được duy trì, tồn tại đến
ngày nay. Tranh Đông Hồ, từ tranh vẽ đến tranh in thủ công, đều mang một
phong cách riêng. Từ các khâu như vẽ mẫu, khắc bản in, sản xuất và chế
biến màu rồi đến in vẽ tranh, đều có những khác biệt hợp thành cái độc
đáo về kỹ thuật, mỹ thuật của một dòng tranh. Màu in tranh ở đây được
chế biến từ nguyên liệu có sẵn trong tự nhiên: màu trắng từ sò, điệp;
đen từ than rơm hay lá tre; hồng từ gỗ vang; đỏ từ son; xanh từ gỉ đồng;
lam từ lá chàm; vàng từ hoa hoè, quả dành dành... Kỹ thuật pha màu và
in của tranh làng Hồ tạo cho sắc tranh trong sáng, óng xốp.
Về
đề tài của tranh khá phong phú, nó phản ánh những sinh hoạt, quan hệ xã
hội ở nơi thôn dã và luôn được thay đổi hay bổ sung. Thời phong kiến có
tranh cóc, chuột, hái dừa, đánh ghen, khiêng trống, đánh vật... Thời
Pháp thuộc có cóc Tây múa kỳ lân, văn minh tiến bộ, phong tục cải lương,
nhảy đầm... Đến thời kỳ kháng chiến có Việt Nam độc lập, sản xuất tự
túc, bình dân học vụ, rồng lửa Thăng Long, bắt sống giặc lái máy bay,
được mùa lúa xuân, lúa ngô khoai sắn, Bác Hồ về thăm làng...
Ngày
trước, cứ đến Tết dường như nhà nào ở nông thôn vùng Bắc Bộ cũng có một
vài tờ tranh Đông Hồ, nó làm bừng sáng những căn nhà đơn sơ, thấp bé
nhưng là tổ ấm của gia đình. Bức tranh ngày tết cùng góp vui và reo lên
những tiếng cười trong trẻo trong cuộc sống khốn khó của người dân thôn
quê Việt Nam. Tranh Đông Hồ phản ánh đúng tâm tư nguyện vọng và những
ước mơ bình dị, gần gũi với cuộc sống đời thường của người dân. Những
nghệ nhân vẽ tranh cùng cảnh nghèo khó như bao người dân lao động nghèo
khó khác. Do vậy tranh ở đây thật sự đã gây được ấn tượng sâu sắc và sự
hâm mộ của họ. Có lẽ vì thế mà tranh được sản xuất, bán ra khá nhiều và
rộng khắp từ các chợ làng quê đến thành thị ở mọi miền đất nước. Năm này
qua năm khác, sau mỗi mùa gặt hái, người ta lại nhắc nhở nhau:
"Dù ai buôn bán trăm nghề
Mồng sáu tháng chạp nhớ về buôn tranh"
Tranh Hàng Trống
Dòng
tranh Hàng Trống phát triển ở các phố Hàng Trống, Hàng Nón (Hà Nội).
Cách diễn hình tinh vi, phong phú trong khuôn khổ bức tranh và trong
nhiều loại tranh. Khuynh hướng tranh trục cuốn phương Đông được sử dụng
mạnh mẽ nhằm tạo không gian có nhiều mảng trống, gợi cảm và thanh cảnh
theo thị hiếu của dân thành thị.
Tranh
Hàng Trống nét mảnh, tinh, yểu điệu. Do sử dụng được mầu phẩm nên hoà
sắc của tranh Hàng Trống rất phong phú, gợi được khối của không gian.
Mầu thường là lam - hồng, có thêm lục - đỏ, da cam - vàng. Mầu phẩm tô
bằng tay sau khi đã in các nét đen, pha ít hay nhiều nước mà có màu đậm
nhạt. Tranh chỉ tạo khối ở nhân vật, không có khái niệm về không gian
xa, gần.
Các tác phẩm tranh dân gian nổi tiếng như: Lý ngư vọng
nguyệt, Thất đồng, Ngũ hổ, Tố nữ; bộ tranh truyện: Hoa Tiêu, Kiều... bộ
tranh về cảnh dạy học, cảnh nhà nông hay các kiểu khác: canh, tiều, ngư,
mục (nhà nông, tiều phu, đánh cá, chăn trâu); các tranh thờ: Tam toà
Thánh Mẫu, Phật, Tứ phủ, Ngọc hoàng... làm cho dòng tranh có thể sánh
ngang với bất cứ dòng tranh đồ hoạ danh tiếng nào.
Ước vọng hạnh
phúc và dùng nhiều mô típ tượng trưng, màu sắc tươi sáng, nội dung vui
vẻ, ngộ nghĩnh, đơn giản hoá các khái niệm triết học là tinh thần chính
của dòng đồ hoạ trên, tranh thường được bán vào các dịp tết âm lịch.
Hành nghề có tính phường thợ, cha truyền con nối.
Tranh Kim Hoàng (xã Vân canh, Hoài Đức - Hà Tây)
Bên
cạnh hai dòng tranh Đông Hồ và Hàng Trống, dòng tranh Kim Hoàng phát
triển từ thế kỉ 18 đến thế kỉ 19. Sự hợp nhất hai làng Kim Bảng và Hoàng
Bảng thành Kim Hoàng tiến tới xây dựng đình chung "Trưởng bảng hội
đình" vào ngày 3-2 năm Chính Hoà thứ 22 (1701), cũng có lẽ chuẩn bị cho
bắt đầu của nghề in tranh trong làng. Hàng năm, người Kim Hoàng làm
tranh từ rằm tháng một (tháng 11 âm lịch) đến giáp tết, thoạt đầu thì
cúng tổ nghề. Các ván in do một chủ phường có tài năng vẽ và khắc. Sau
ngày giỗ tổ mới phát cho các gia đình. Trong quá trình in họ trao đổi
ván cho nhau. Hết mùa tranh họ lại giao ván cho các chủ phường khác cất
giữ.
Tranh
Kim Hoàng cũng đủ loại tranh thờ cúng, chúc tụng như một số dòng tranh
khác cùng thời (Đông Hồ, Hàng Trống). Nhưng tranh Kim Hoàng lại kết hợp
được nhiều ưu điểm của hai dòng tranh đó. Tranh Kim Hoàng có nét khắc
thanh mảnh, tỷ mỉ hơn tranh Đông Hồ; màu sắc tươi như tranh Hàng Trống.
Về màu, tranh Kim Hoàng dùng mực tàu, trắng là thạch cao, phấn; chàm,
xanh chàm từ mực tàu hoà với nước chàm và các màu hoá học. Giấy in không
quét điệp như tranh Đông Hồ, cũng không dùng giấy xuyến như tranh Hàng
Trống mà in trên giấy màu đỏ, giấy hồng điều, giấy tàu vàng. Tranh lợn
bột in hình con lợn mình đen, viền trắng cách điệu rất ngộ nghĩnh giống
như những con lợn đất bán ở chợ, trên nền giấy đỏ tạo một vẻ đẹp riêng
gây ấn tượng mạnh mẽ của tranh Kim Hoàng.
Tương truyền, dòng họ
Nguyễn Sĩ là dòng họ làm tranh sơ khởi người Thanh Hoá theo mẹ ra Thăng
Long rồi lập nghiệp ở đây. Trận lụt năm 1915 làng mạc ngập trắng từ
Phùng đến Cầu Giấy, cuốn trôi nhiều ván in tranh của làng. Tranh Kim
Hoàng dần bị thất truyền, đến năm 1945 thì hoàn toàn không còn sản xuất
nữa. Ngày nay, một vài ván in của dòng tranh này còn được lưu giữ ở bảo
tàng Mỹ Thuật Việt Nam.
Tranh làng Sình
Làng Sình có
tên chữ là Lại Ân thuộc tổng Hoài Tài, huyện Tư Vang, phủ Triệu Phong,
xứ Thuận Hoá, Phú Vang. Làng nằm ở ven bờ Nam hạ lưu sông Hương, cách
Huế không xa (bên kia sông Bảo Vĩnh). Làng Sình nổi tiếng về hội vật
mùng mười tháng giêng. Nhưng làng Sình còn nổi tiếng về một nghề làm
tranh thờ in ván khắc. Trước kia hầu hết tranh thờ in ván bày bán ở chợ
vùng này là do dân làng Sình làm, nên gọi là "tranh Sình".
Thời
hưng thịnh của tranh Sình, những người trong các gia đình ở đây đều biết
in và tô màu cho tranh. Tranh làm ra bán buôn ngay tại nhà hoặc bán cho
hàng mã ở chợ, có khi được đặt từ trước. Giấy in tranh là giấy mộc, màu
trước kia lấy màu từ tự nhiên (thực vật, kim loại, sò điệp), sau là
phẩm hoá học gồm các màu cơ bản đỏ, vàng, xanh và đen. Bản khắc từ gỗ
mít. Tranh ở đây in lối ngửa ván rồi dùng tay vuốt giấy cho phẳng, in
lấy một nét và mảng đen, sau dựa vào đấy mà tô màu. Một số tranh in đen
xong là hoàn chỉnh.
Tranh Sình chủ yếu là tranh thờ, tranh cúng
lễ phục vụ tín ngưỡng dân gian. Tranh làng Sình có khoảng 50 đề tài khác
nhau, phản ánh tín ngưỡng cổ sơ, tư tưởng của người Việt cổ trước một
thiên nhiên hoang sơ, thần bí. Cuộc sống của con người bị chi phối bởi
nhiều tai hoạ nên họ cần đến sự che chở của thần linh. Người ta cúng
tranh để cầu mong người yên, vật thịnh, phụ nữ sinh nở được "mẹ tròn con
vuông", trẻ nhỏ mau lớn, người ốm chóng khỏi...
Bên cạnh ý
nghĩa thờ cúng, tranh Sình còn khắc hoạ bằng hình ảnh sinh động những
sinh hoạt văn hoá, xã hội, lao động. Nhóm tranh muông thú rất gần gũi
với mọi nhà (lợn, ngựa, voi...), các đồ vật quen thuộc (chậu, hoa,
thuyền bè...). Tranh Sình đơn giản nhưng đẹp một cách bình dị, tự nhiên.
Một trong những đề tài khá phổ biến và đẹp là bộ tranh tố nữ, mỗi bức
vẽ một cô đứng biểu diễn một loại nhạc cụ. Trang phục của các cô đều
giống nhau là áo "mã tiên", áo trắng dài mặc trong, áo cánh màu bận
ngoài, mầu áo có thể thay đổi khi tô màu sao cho vui.
Tranh làng
Sình nặng về tính chất thờ cúng, chưa đáp ứng được yêu cầu thưởng ngoạn
của dân gian, chưa phản ánh được niềm lạc quan, yêu đời như tranh tết,
tranh sinh hoạt Đông Hồ. Tranh làng Sình đã bị thất truyền từ lâu, nhưng
dẫu sao thì nó đã có một thời gần gũi với bao gia đình ở miền Trung.
|
|
|
|
|
|
VHA Admarket
|
|
Nằm ở trung tâm thủ đô, bên cạnh công viên Thủ Lệ, trong quần thể khu vực các khách sạn cấp cao của thủ đô Hà Nội, gần các trung tâm văn hoá, thương mại, tài chính... Khách sạn Daewoo với các phòng nghỉ tiện nghi, nhà hàng sang trọng, phòng họp, phòng hội thảo... với dịch vụ chất lượng tiêu chuẩn quốc tế 5 sao...sẽ mang tới cho qúy khách sự hài lòng nhất để công tác và thư giãn.
|
|
|
|
Chỉ cách sân bay quốc tế Đà Nẵng 25 km. Cách bãi biển Cửa Đại 4 km và Cách phố cổ Hội An 100 m từ khách sạn Hội An dễ dàng tham quan những điểm du lịch hấp dẫn khác như: Thánh địa Mỹ Sơn, cố đô Huế, Thành phố Đà Nẵng với các điểm hấp dẫn như Bà Nà, Bán đảo Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn.
|
|
|
|
Khu nghỉ mát có tới 23 hồ bơi cùng nhiều môn thể thao biển trên Bãi Dài – Cam Ranh. Cách Nha Trang một quãng đường ngắn và chỉ mất 20 phút đi xe từ Sân bay Quốc Tế Cam Ranh, khu nghỉ mát biệt lập của chúng tôi được bao quanh bởi các dãy núi với hệ thực vật phong phú và đồi cát rộng lớn.
|
|
|
|
Khách sạn IMPERIAL cung cấp đa dạng các tiện nghi và dịch vụ bao gồm The Dining Room (phòng ăn) có không gian ấm cúng và thoải mái như tại nhà, chuyên phục vụ các món ăn tươi ngon, sử dụng các nguyên vật liệu tươi ngon từ khắp nơi trên thế giới.
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|